Hiển thị các bài đăng có nhãn Thuật ngữ ngành in. Hiển thị tất cả bài đăng

6/17/2016

thumbnail

Giấy Kraft là gì ? Có bao nhiêu màu và đặc điểm, công dụng của giấy Kraft

Giấy kraft là gì ?
Giấy karft là cái tên mà ít người biết nhưng chúng ta vẫn sử dụng hàng ngày như túi đựng thực phẩm, túi giấy đựng si măng, túi giấy đựng bánh mì, hộp cái tông, ...


Giấy Kraft có thể được tái chế lại thành các loại giấy tập học sinh, giấy cho thùng Carton nên còn được gọi là giấy thân thiện với môi trường.

giấy kraft phong bì
 phong bì giấy kraft

Đặc điểm của giấy Kraft


Giấy Kraft có tính chất đanh, dẻo dai và tương đối thô. Độ bền kéo, xé lớn, bắt mực tốt. Loại giấy này thường được dùng để sản xuất các loại bao bì như túi xách, phong bì, giấy gói, lớp lót. Có trọng lượng 70-80 g/m2. Định lượng giấy trung bình thường 50-175g/m2.

Giấy Kraft có đặc tính màu nâu vàng, độ sáng khác nhau tùy vào từng nhà cung cấp giấy như Trung Quốc, Đài Loan, Indo. Hiện tại thị trường Việt Nam đang ưa chuộng dòng giấy Kraft nhập khẩu từ Nhật.
Giấy kraft có 2 mầu cơ bản nâu vàng và màu trắng ngoài ra còn có nhiều màu khác. Nhưng ở việt nam được ưa truộm là 2 mầu nâu vàng và trắng.

giấy kraft màu trắng
Túi giấy kraft trắng

Công in ấn và nhuộm tiên tiến nên màu sắc của giấy kraft cũng đa dạng để phù hợp với từng loại sản phẩm.

Các màu khác của giấy kraft
Túi Giấy kraft màu đen

Các màu khác của giấy kraft
Túi Giấy kraft màu đỏ sáng

Các màu khác của giấy kraft
Túi Giấy kraft Burgundy
Các màu khác của giấy kraft
Túi Giấy kraft màu hoa mười giờ, tím hồng
Các màu khác của giấy kraft
Các màu khác của giấy kraft

Công dụng của giấy kraft

Rất nhiều sản phẩm được sản xuất từ giâý kraft. túi đựng thực phẩm, thùng carton. Các loại giấy kraft có định lượng cao, độ dày được sử dụng để làm name card, thẻ tag treo quần áo, túi đựng bánh mì, túi giấy đựng bánh. Một số loại được sử dụng làm bao thư, bìa hồ sơ,..


6/15/2016

thumbnail

Cấu trúc và cách trình bày một ấn phẩm thông tin

Cấu trúc và trình bày ấn phẩm thông tin


Lúc 1 cơ quan thông tin, thư viện in ấn và thiết kế hoặc xuất bản ấn phẩm thông tin buộc phải ghi rõ những thông tin nhận dạng và đặc trưng của ấn phẩm như:
- Thông tin về trách nhiệm: người viết ra, người biên soạn, biên tập, ban biên tập, cơ quan chịu trách nhiệm về nội dung v.v…;
- Nhan đề ấn phẩm (nhan đề chính, nhan đề khác, nhan đề tùng thư v.v…);
- Thông tin về dạng ấn phẩm (nếu chưa được thể hiện ở nhan đề xuất bản phẩm như tổng luận phân tích, bản tin mua lọc phục vụ lãnh đạo v.v…);
- Thông tin về định kỳ, năm bắt đầu xuất bản (ví dụ: bản tin ngày, 6 số/năm v.v…);
- shop xuất bản: Nơi xuất bản, tên cơ quan hoặc nhà xuất bản, năm xuất bản;
- Số thiết bị tự xuất bản (có thể bao gồm tháng, năm xuất bản) đối với những ấn phẩm liên tục;
- Thông tin ấn loát: số lượng bản, trang, khổ cỡ (kích thước), số xuất bản, tên và cửa hàng cơ sở in ấn và thiết kế, ngày tháng in ấn và thiết kế và in xong, ngày tháng nộp lưu chiểu v.v…;
Ấn phẩm thông tin thường do những cơ quan sở hữu hoạt động thông tin và tư liệu xuất bản. Trong bất cứ 1 dòng hình nào của ấn phẩm thông tin đều được xuất bản theo một cấu trúc thống nhất và được chia khiến cho 3 phần:
- Phần chính;
- Bộ máy tra cứu;

1. Phần chính

là phần phản ánh những kết quả xử lý, phân tích, tổng hợp các tài liệu gốc và xác định sự khác nhau giữa các dạng ấn phẩm thông tin.
Ví dụ: Phần chính của ấn phẩm thư mục là tập hợp các biểu ghi thư mục, phần chính của ấn phẩm tóm tắt là tập hợp những bản tóm tắt đi kèm sở hữu biểu ghi thư mục, phần chính của bản tin là tập hợp những bài thông tin chuyên đề, phần chính của tổng luận là 1 hoặc một số bài tổng luận.

2. Bộ máy tra cứu của ấn phẩm thông tin

Tùy theo mức độ xử lý để tạo lập bộ máy tra cứu cho ưng ý có từng ấn phẩm thông tin. Nhìn chung, bộ máy tra cứu đầy đủ cho 1 ấn phẩm thông tin bao gồm: Mục lục, Lời giới thiệu (mở đầu), Hướng dẫn dùng ấn phẩm, Sơ đồ sắp xếp, những bảng tra phụ trợ, Danh mục nguồn tài liệu gốc, Bảng các từ viết tắt và các ký hiệu.
Mục lục là bảng kê tên những phần, mục của ấn phẩm và được xếp đặt theo trình tự như bố trí chúng trong ấn phẩm đồng thời mang ghi số trang bắt đầu hoặc trang bắt đầu và trang cuối cộng của phần, mục tương ứng.
Lời giới thiệu (mở đầu) thường nêu rõ nhiệm vụ, tính chất, mục đích của ấn phẩm; thể thức xuất bản (định kỳ, việc đánh số, việc phân chia thành những chuyên đề khác nhau v.v…), cơ sở lựa tìm và sắp xếp tài liệu, bộ máy tra cứu của ấn phẩm, thể thức phát hành, đặt tìm, trao đổi ấn phẩm, đặt sao tài liệu v.v…
Hướng dẫn sử dụng ấn phẩm là bản quy tắc dùng ấn phẩm. Ví dụ: Trong ấn phẩm thư mục và tóm tắt thường hướng dẫn giải thích các khía cạnh mô tả thư mục như nhan đề, người viết ra, ký hiệu phân cái, số trang bị tự tài liệu trong ấn phẩm. Trong bản hướng dẫn dùng sở hữu thể giới thiệu về thể thức phát hành, đặt tậu, trao đổi ấn phẩm đặt sao tài liệu.
Sơ đồ xếp đặt của ấn phẩm là danh mục những ký hiệu phân mẫu và các đề mục tương ứng được sử dụng để sắp xếp tài liệu trong phần chính của ấn phẩm.
Bảng tra phụ trợ được dùng để giúp tra cứu nhanh đến các biểu ghi thư mục, các bài tóm tắt hoặc những chương, mục quan trọng trong các phần khác nhau của ấn phẩm. Ví dụ Bảng tra Tên tác giả, Tên nhan đề, Bảng tra từ khóa trong các ấn phẩm thư mục...
Danh mục tài liệu gốc là bảng kê tên các tài liệu cấp I (ví dụ sách, bài báo v.v…) cất những thông tin được dùng để biên soạn ấn phẩm (thường sở hữu trong ấn phẩm tổng luận). Danh mục tài liệu gốc thường để ở cuối ấn phẩm và chia theo ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Anh,... Trong từng ngôn ngữ tài liệu được bố trí theo trang bị tự chữ loại của tiêu đề mô tả.
Bảng những từ viết tắt và những ký hiệu là bảng kê theo vần chữ chiếc các từ viết tắt và các ký hiệu được sử dụng trong ấn phẩm, sở hữu giải nghĩa (giải mã) hầu hết về chúng.

3. Phần phụ thêm

bao gồm:
- dòng phiếu yêu cầu;
- cái phiếu phản hồi;
- Thông tin quảng cáo.
dòng phiếu bắt buộc là cái quy định thủ tục và hình thức nêu đề nghị tài liệu gốc, bản sao hoặc các dịch vụ khác (ví dụ: bắt buộc dịch, tóm tắt tài liệu v.v…).
mẫu phiếu phản hồi là dòng gồm các mục (câu hỏi) đưa ra để khách hàng tin dựa vào ấy điền những thông tin về sự phù hợp của ấn phẩm thông tin được xuất bản đối sở hữu đề nghị tin của họ, về tính chất và hiệu quả tiêu dùng chúng.
Thông tin quảng cáo: Trong ấn phẩm thông tin được phép quảng bá về những ấn phẩm thông tin cũng như về các xuất bản phẩm khác.
Việc trình bày, sắp xếp những thông tin xuất bản đối với ấn phẩm đa dạng tập và ấn phẩm tiếp tục (định kỳ, phổ biến kỳ, tùng thư) buộc phải thống nhất cho mọi các số (quyển, tập) của ấn phẩm đấy.
Việc đánh số trang bị tự xuất bản những ấn phẩm định kỳ hàng năm đều nên bắt đầu từ số một (đánh số theo từng năm) và buộc phải ghi năm (có thể cả tháng) xuất bản.
Trên đây là những đặc điểm, cấu trúc và phương pháp trình bày ấn phẩm thông tin theo TCVN 4523 do Ban Tiêu chuẩn TC46 Việt Nam ban hành năm 2009. Mong rằng chúng ta sẽ thống nhất được phương pháp trình bày những dạng ấn phẩm thông tin được biên soạn trong toàn hệ thống để người mua tin dễ dàng nhận dạng tài liệu cấp II, là sản phẩm của những cơ quan thông tin, thư viện.
Nguồn nlv.gov.vn
thumbnail

5 loại hình ấn phẩm thông tin

5 loại hình ấn phẩm thông tin

5 loại hình ấn phẩm thông tin


ấn phẩm thông tin là gì xem tại đây

1. Ấn phẩm thư mục (Bibliographic publication)


Là ấn phẩm thông tin mà phần chính là tập hợp những biểu ghi thư mục được bố trí theo 1 trật tự nhất định. Biểu ghi thư mục (Bibliographic record) là tập hợp các thông tin thư mục, bên cạnh mô tả thư mục là thành phần bắt buộc còn sở hữu thể thêm: số vật dụng tự của biểu ghi, tiêu đề, chỉ số phân cái, đề mục, từ khóa, ký hiệu xếp báo giá, bài chú giải v.v… tùy theo mục đích sử dụng. Trong các ấn phẩm thư mục, ví dụ như: Thư mục quốc gia, thông báo tài liệu mới, thư mục chuyên đề, thư mục địa chí, mục lục quyển, mục lục liên hợp; việc bố trí các biểu ghi thư mục bắt buộc được tiến hành theo ký hiệu phân mẫu của khung phân loại mà ấn phẩm tiêu dùng (có thể là DDC, BBK, Khung Đề mục Quốc gia,…). nếu những biểu ghi với cùng ký hiệu phân mẫu thì được sắp xếp theo vần chữ chiếc (họ tên tác kém chất lượng hoặc nhan đề tài liệu v.v…), tiếp theo là trình tự thời gian xuất bản của các tài liệu gốc, dạng tài liệu hoặc kết hợp những dấu hiệu nêu trên.

2. Ấn phẩm tóm tắt (Abstract publication)


Ấn phẩm tóm tắt là ấn phẩm thông tin mà phần chính là tập hợp những bài tóm tắt đi ngay lập tức sở hữu các biểu ghi thư mục tương ứng và được bố trí theo 1 trình tự nhất định, thường là theo hệ thống của khung phân mẫu. Ấn phẩm tóm tắt thường được xuất bản dưới những tên như: “Tạp chí tóm tắt...”, “Tuyển tập tóm tắt…”,...

Trong ấn phẩm tóm tắt, phần chính thường bao gồm biểu ghi thư mục gắn ngay lập tức mang bài tóm tắt. vì thế, cách xếp đặt và trình bày thường giống ấn phẩm thư mục.

3. Ấn phẩm bản tin (Bulletin)


Bản tin là tập hợp các thông tin sở hữu tính thời sự hoặc chuyên ngành, dùng cho cho 1 số đối tượng cụ thể, nhằm chế tạo thông tin hoặc hỗ trợ thông tin để ra quyết định. Ấn phẩm bản tin có thể được xuất bản dưới dạng giấy hoặc điện tử, trong đó phần chính là những bài thông tin chuyên đề, được xếp đặt theo một trình tự nhất định. Ấn phẩm bản tin sở hữu phổ biến loại: bản tin ngày hay còn gọi là bản tin nhanh, bản tin chuyên đề, bản tin sắm lọc dùng cho lãnh đạo, bản tin điện tử v.v…

Bản tin ngày (Daily bulletin): cung ứng thông tin nhanh, với tính thời sự hoặc thông tin chuyên ngành được tổng hợp từ rộng rãi tài liệu gốc khác nhau. Để thông tin nhanh, bản tin ngày ngày nay thường được xuất bản điện tử, gọi là bản tin điện tử.

Bản tin mua lọc phục vụ lãnh đạo (Selective bulletin for leader): Bản tin ngắn, gồm những thông tin được tìm lọc từ phổ biến nguồn tài liệu khác nhau về chiến lược, chính sách vững mạnh những ngành, các lĩnh vực, nhằm chế tạo thông tin ngắn gọn và nhanh chóng cho các nhà quản lý, lãnh đạo.

Bản tin kỹ thuật, công nghệ (Scientific, technological bulletin): Là ấn phẩm thông tin sở hữu nội dung chủ yếu là những thông tin ngắn gọn về những ngành kỹ thuật, kỹ thuật v.v…

4. Ấn phẩm tổng luận (Review)


Là ấn phẩm thông tin mà phần chính là một hoặc 1 số bài tổng luận và được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Tổng luận được chia làm cho 3 loại: Tổng luận thư mục, tổng luận tóm tắt và tổng luận phân tích.

Tổng luận thư mục (Bibliographic review): là tổng luận giới thiệu các tin tức, số liệu 1 bí quyết có hệ thống các tài liệu gốc về một chuyên đề hoặc một lĩnh vực nghiên cứu nào đó;

Tổng luận tóm tắt (Abstract review of several source): là tổng luận trình bày có hệ thống, cô đọng và tổng hợp thông tin rút ra từ các tài liệu gốc về nội dung cơ bản của một vấn đề được kể.

Tổng luận phân tích (Analytical review) là tổng luận mà trong đấy ko kể việc tổng hợp, hệ thống hoá thông tin cần phải có đánh báo giá, phân tích nội dung tài liệu gốc và nêu lên các kết luận, kiến nghị của mình về những vấn đề được đề cập.

5. Ấn phẩm tổng hợp (General publication)


Ấn phẩm tổng hợp là ấn phẩm thông tin mà trong ấy là tập hợp các biểu ghi thư mục, các bài tóm tắt, các bài tổng thuật có thể do những cán bộ thư viện và cơ quan thông tin biên soạn.

Ấn phẩm tổng hợp là cái hình ấn phẩm thông tin khá phong phú, nhiều cơ quan thông tin - thư viện đều biên soạn ấn phẩm này. Ví dụ: “Thông tin văn hoá nghệ thuật” do Thư viện Quốc gia biên soạn; “Thông tin môi trường” và “Thông tin chiến lược lớn mạnh khoa học-kỹ thuật-kinh tế” của Cục Thông tin kỹ thuật & công nghệ Quốc gia.

Nguồn nlv.gov.vn
thumbnail

Ấn phẩm thông tin là gì

Ấn phẩm thông tin là gì

Ấn phẩm thông tin là gì ?

Ấn phẩm thông tin là tập hợp các kết quả xử lý, phân tích, tổng hợp thông tin từ tài liệu cấp 1. Ấn phẩm thông tin được coi là tài liệu cấp hai và là một trong những hình thức đa dạng và dùng cho thông tin chủ yếu nhất trong hoạt động thông tin - thư viện.

Ấn phẩm thông tin là sản phẩm của các cơ quan thông tin - thư viện với những chức năng đặc biệt, bắt buộc sở hữu các đặc điểm, cấu trúc và phương pháp trình bày riêng.

Ấn phẩm thông tin được phân loại theo

  1. Theo hình thức xử lý thông tin, chia thành những dạng: thư mục, tóm tắt, bản tin, tổng luận và ấn phẩm tổng hợp; 
  2. Theo hình thức xuất bản, chia thành những dạng: sách, tạp chí và ấn phẩm điện tử; theo thời hạn xuất bản, có: định kỳ, không định kỳ và rộng rãi kỳ; 
  3. Theo hình thức lưu trữ thông tin, chia thành 2 dạng chính: giấy và điện tử.

Ấn phẩm thông tin có 5 loại hình sau

  1. Ấn phẩm thư mục
  2. Ấn phẩm tóm tắt
  3. Ấn phẩm bản tin
  4. Ấn phẩm tổng luận
  5. Ấn phẩm tổng hợp

Xem chi tiết về các loại hình ấn phẩm tại đây

6/11/2016

thumbnail

In tem nhãn mác sản phẩm bằng chất liệu nào thì tốt ?


In tem bằng chất liệu nào thì tốt ?

Trong in tem chất liệu được lựa chọn nhiều nhất là decal, vậy delcal có mấy loại, tại sao lại lựa chọn decal vào in tem nhãn dán sản phẩm. Các câu trả lời sẽ được làm dõ trong nội dung bài viết này.

Cấu tạo của decal có những gì ?

Cấu tạo của decal

1. Lớp mặt sở hữu thể là giấy, màng nhựa tổng hợp hoặc vải, sở hữu thể được tráng hoặc ko tráng các chất vô cơ như cao lanh hoặc tấm kim loại . Lớp mặt thường mang khả năng in , viết được. Lớp mặt có thể được gia cố thêm lớp màng mỏng, trong để ngăn bí quyết tương đối ẩm và bụi

2. Lớp keo (thường là acrylic ) được phủ lên mặt đáy của lớp mặt và thường dính chặt vào lớp mặt

3. Lớp ngăn bí quyết dính, với thể bằng silicon hoặc PE-silicon được phủ lên mặt trên của lớp đế để ngăn phương pháp lớp đế khỏi dính vào lớp keo

4. Lớp đế với thể là giấy Kraft hay Glassine nhằm bảo vệ lớp keo lúc chưa dùng.

Với loại tem nhãn decan này cũng sở hữu đa dạng căn nguyên, đặc tính khác nhau ưa thích mang nhu cầu cụ thể của từng lĩnh vực. Đây là nguyên liệu in Tem nhãn decan được dùng và nhiều nhất hiện nay. Nó sở hữu thể khiến cho tem phụ, tem bao bì, nhãn mác. lúc in ấn có thể in ấn và thiết kế dạng tờ rời( kỹ thuật in ấn và thiết kế offset) hay in dạng cuộn( công nghệ in ấn label).

In tem nhãn sản phẩm bằng nguyên liệu decal gồm mấy loại ?

In tem nhãn sản phẩm bằng nguyên liệu decal gồm mấy loại ?

- in ấn Decal trong in trên được làm từ nhựa trong suốt thường dùng để dán trên các loại bao bì thủy tinh

- in ấn và thiết kế Decal nhựa in offset để thể hiện các loại mẫu sản phẩm dạng tem nhãn quảng cáo

- in ấn và thiết kế Decal cuộn in flexo với chất lượng cao cho các công ty có hệ thống máy dán nhãn mác tự động

- in ấn và thiết kế Decal pp dán trong nhà hoặc ngoài trời dùng để quảng bá thương hiệu, banner, graphic cổ động

Quá trình thực hiện việc in ấn và thiết kế tem decal cũng tương tự như các loại tem nhãn mác khác. Nhãn decal sẽ được in ấn offset hoặc in flexo dạng tem cuộn dùng cho các công ty có dây chuyền dán tem nhãn tự động. Ngoài ra bề mặt có thể được gia cố thêm lớp màng mỏng ngăn cách hơi ẩm và bụi trong quá trình sử dụng.
- blog ngành in

6/07/2016

thumbnail

Tem bảo hành có mấy loại ?

Thêm chú thích

Ngày nay trên thị trường chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp rất nhiều loại tem bảo hành, tem vỡ khác nhau. Tuy nhiên căn cứ vào đặc tính riêng biệt của từng loại tem chúng ta có thể phân thành 2 loại chính đó là: Tem giòntem dai và kích thước thường dùng của tem bảo hành .

Tuy nhiên ở chúng đều có điểm chung và điểm riêng vậy điểm chung và điểm riêng là gì
+ Điểm chung: Đều chỉ sử dụng được 1 lần duy nhất
+ Điểm riêng: Quy trình sản xuất, cách thức vận hành khác biệt, đặc tính khác nhau khi tem giòn khi bóc ra thì sẽ bị vỡ vụn còn tem dai khi bóc ra cũng sẽ không thể giữ được nguyên trạng như lúc ban đầu.

Tem bảo hành có mấy loại ?

Tem Giòn là gì?

Tem giòn. Thông thường loại tem này được dán lên bề mặt của các thiết bị như linh kiện máy tính, linh kiện điện thoại, các thiết bị điện tử viễn thông. Mục đích của tem giòn đó là để ngăn cản việc bóc tách ra và dán lại. Vì tất cả các loại tem đều chỉ sử dụng được 1 lần dán duy nhất. Thông thường loại tem này sau khi in xong chúng không có đặc tính giòn mà cần được để ngoài môi trường không khí một thời gian ngắn khoảng 1h đồng hồ kể từ khi xong . Nếu chúng giòn ngay sau khi in thì sẽ rất khó khăn cho việc dán mác vào từng sản phẩm. Cũng chính vì vậy chất liệu làm tem giòn phải rất đặc biệt và quy trình làm ra cũng khắt khe hơn nhiều so với loại tem dai.

Tem dai là gì?

Loại tem này chúng ta có thể bắt gặp trên các sản phẩm như nắp chai rượu, nắp chai dầu gội, két sắt, xe gắn máy, xe ben…đặc điểm của chúng đó là khá dai và khi bóc ra cũng sẽ không thể giữ được nguyên trạng như lúc ban đầu. Màu sắc của tem dai thường nổi bật hơn so với tem giòn cũng một phần lý do chất liệu sản xuất ra 2 loại tem là khác nhau.

6/06/2016

thumbnail

Những công nghệ chế bản điện tự được sử dụng nhiều nhất hiện nay

Hiện nay đã xuất hiện những hệ thống chế bản hiện đại hơn là công nghệ CTPress (Computer To Press) từ máy tính trực tiếp ghi bản trên máy in và công nghệ Computer to Print máy tính điều khiển máy in tạo ra sản phẩm in mà không cần chế ra bản in. 

Trong khi đó ở Việt Nam, tuy việc áp dụng kỹ thuật số vào lĩnh vực chế bản đã khá phổ biến nhưng nhìn chung còn ở mức độ thấp so với thế giới.


Những công nghệ chế bản điện tự được sử dụng nhiều nhất hiện nay

Chúng ta chỉ mới đầu tư một số hệ thống CTP cho những công ty in lớn có tiềm lực tài chính, còn đa số các công ty in ở nước ta hiện nay vẫn sử dụng công nghệ CTF có sử dụng giấy scan và dàn trang thủ công, công nghệ dàn trang điện tử và ra phim tấm vẫn chưa được áp dụng nhiều. Sau đây tôi xin được giới thiệu một cách tổng quan về các công nghệ chế bản chủ yếu được áp dụng trên thế giới hiện nay.

1. Công nghệ CTF

Công nghệ CTF là công nghệ chế bản số trong đó dữ liệu số (Digital) từ máy tính được chuyển thành dữ liệu tương tự (Anolog) trên film thông qua các máy ghi film, film được đem bình trước khi phơi để truyền hình ảnh lên bản in. Quy trình tổng quát của công nghệ CTF được mô tả theo sơ đồ sau: 
Nhập dữ liệu
vào máy tính
Xử lý, Dàn trang
trên máy tính
Xuất ra phim
hoặc giấy scan

Hiện nay, công nghệ CTF sử dụng trong các nhà in không có sự đồng bộ, có 3 mức độ công nghệ CTF khác nhau đang được áp dụng tại các nhà in nước ta, đó là công nghệ CTF có sử dụng giấy scan, công nghệ CTF xuất phim theo từng trang và công nghệ CTF xuất phim khổ bản in.

1.1. Công nghệ CTF có sử dụng giấy scan

Đây là phương pháp thủ công nhất trong công nghệ CTF, phim chỉ sử dụng cho các ảnh tách màu, chữ được in trên giấy scan bằng máy in Laser. Sau đó chữ và ảnh được đem bình và phơi tạo bản in. Phương pháp này đòi hỏi nhiều lao động thủ công và không đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật do sử dụng giấy scan (độ đen của chữ không đảm bảo, độ biến dạng của giấy scan lớn hơn và không đồng bộ với phim khi phơi bản cùng). 
Tuy nhiên, phương pháp này hiện nay lại được áp dụng phổ biến tại các nhà in ở nước ta, nguyên nhân là do yếu tố kinh tế vì khi sử dụng giấy scan sẽ làm giảm chi phí đáng kể so với chỉ sử dụng phim và thị trường nước ta chưa quá khắt khe trong vấn đề chất lượng


1.2. Công nghệ CTF xuất Film theo từng trang

Các trang bao gồm chữ và ảnh được xây dựng hoàn chỉnh bằng các phần mềm dàn trang sau đó được xuất ra film và đem bình theo đúng maket khách hàng. Hiện tại, phương pháp này chỉ được áp dụng cho các tạp chí chất lượng cao với chất lượng, độ chính xác cao và thời gian sản xuất ngắn.
Những công nghệ chế bản điện tự được sử dụng nhiều nhất hiện nay

1.3. Công nghệ CTF xuất Film khổ bản in

Sau khi nhập chữ, quét ảnh, xử lý ảnh và dàn trang trên máy tính, các trang riêng rẽ sẽ được sắp xếp lên một khuôn có kích thước xác định (bằng kích thước bản in) trên máy tính, sau khi thêm các dấu ốc phục vụ cho công việc in và gia công sau in, một máy ghi phim khổ lớn sẽ được sử dụng để xuất ra những tấm phim phân màu có khổ bằng khổ bản in và công việc tiếp theo chỉ là phơi bản. 
Công nghệ này đảm bảo được các yêu cầu về độ chính xác và chất lượng bản in làm ra, giảm bớt được khâu bình bản thủ công, vì vậy giảm đáng kể thời gian sản xuất và không phải sử dụng các nguyên vật liệu trong công việc bình bản như băng dính, đế bình… Tuy nhiên, hiện nay chỉ có một số ít nhà in có thể áp dụng công nghệ này do vốn đầu tư khá lớn vì phải đầu tư máy ghi phim khổ lớn, chi phí sản xuất tăng khi ghi phim khổ lớn. Ngoài ra, để áp dụng được công nghệ này đòi hỏi phải có giải pháp hoàn chỉnh về qui trình chế bản kỹ thuật số như PDF để có thể bình bản điện tử trên máy tính.

2. Công nghệ Computer to plate 

“Computer to plate” là cụm từ mô tả công nghệ chế bản, trong đó dữ liệu số từ máy tính được ghi trực tiếp lên bản in mà không qua khâu trung gian là film. Bản in sau khi được ghi hình có thể được hiện ngay trên hệ thống máy ghi bản hoặc được đưa tới hiện ở máy hiện bản chuyên dụng. Sau đó, bản in được lắp lên máy in theo cách thông thường để tiến hành công việc in. Công nghệ này hiện nay khá phổ biến trên thế giới do những ưu điểm vượt trội của nó so với công nghệ CTF. Một hệ thống CTP thông thường gồm 3 thành phần cơ bản là: Máy tính, hệ thống ghi hình và bản in.


computer to plate technology


 Công nghệ CTP bỏ qua được khâu trung gian từ phim ra bản nên không còn khái niệm dotgain trong quá trình này và chất lượng bản in tạo ra là có thể kiểm soát được.
- Sử dụng được loại T’ram FM và T’ram XM (là sự kết hợp giữa T’ram FM và AM), do đó có độ phân giải của bản in tạo ra rất lớn, với loại T’ram FM có thể đạt độ phân giải 600lpi và 400lpi với T’ram XM (độ phân giải của bản in thông thường hiện nay nhỏ hơn 200lpi). Như vậy, chất lượng bản in tạo ra khá hoàn hảo và loại bỏ được gần như hoàn toàn hiện tượng moiré thường gặp khi sử dụng T’ram AM.
- Do giảm bớt các khâu trung gian nên giảm thiểu rủi ro, sai hỏng, sự định vị chồng màu dễ dàng và chính xác hơn, khi có sai hỏng có thể nhận biết và điều chỉnh một cách dễ dàng và nhanh chóng, nâng cao hiệu quả công việc giảm thời gian chế bản, tăng năng suất lao động. 
Công nghệ Computer to plate

- Loại bỏ được các nguyên vật liệu trung gian như phim, giấy scan, mica, băng dính…Do đó giảm chi phí sản xuất, loại bỏ được rác thải và các hóa chất độc hại với môi trường như phim, dung dịch hiện phim…
- Giảm số lượng công nhân do đó giảm chi phí sản xuất.
Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ CTP cho các nhà in nước ta hiện nay vẫn còn gặp một số khó khăn như giá thành bản in cao, yêu cầu trình độ của người công nhân, thiết bị máy móc của hệ thống này hiện đại và rất mới chưa phổ biến trên thị trường và giá thành còn khá cao. Nhưng trong tương lai, với xu thế phát triển hiện nay nhất định công nghệ CTP sẽ là một công nghệ chế bản tối ưu và sẽ được ứng dụng phổ biến tại nước ta.

3. Công nghệ Computer to Press (CTPress)

Công nghệ CTP và công nghệ CTF vừa được mô tả trên đây vẫn còn phụ thuộc vào phương pháp in truyền thống và những qui định của máy in trong quá trình sản xuất. 


 Công nghệ Computer to Press (CTPress)

Hiện nay trên thế giới, đã xuất hiện những hệ thống chế bản ưu việt hơn có thể chuyển đổi trực tiếp từ dữ liệu số trên máy tính trực tiếp thành hình ảnh trên tờ in tại máy in, bỏ qua các bước trung gian là chế ra phim hoặc bản in và việc lắp bản in lên máy bằng tay. Công nghệ này được gọi là công nghệ Computer to Press (CTPress), có hai công nghệ CTPress khác nhau là công nghệ Computer to press/direct imaging và công nghệ Computer to print.

3.1 Công nghệ Computer to press/direct imaging 

Công nghệ này là một lĩnh vực của công nghệ chế bản Computer to press. Trong đó, một bản in được ghi hình ngay trên trục ống bản của máy in, quá trình ghi bản này được điều khiển từ máy tính. Sau khi nhập dữ liệu, và dàn trang trên máy tính, một bộ phận ghi hình bằng tia laser sẽ hoạt động dưới sự điều khiển của thiết bị xử lý ảnh tram, thiết bị này sẽ xử lý dữ liệu để thực hiện quá trình ghi hình trực tiếp lên bản in, ở máy in nhiều màu bộ phận ghi hình bằng tia laser sẽ ghi những hình ảnh phân màu lên các bản in cùng một lúc ở tất cả các cụm in, công việc ghi hình diễn ra khá nhanh (chỉ vài phút) và sau đó quá trình in có thể được tiến hành ngay.
Computer to press/direct imaging

Hiện nay, có 2 công nghệ Computer to press/direct imaging khác nhau phụ thuộc vào tính chất của bản in, đó là công nghệ Computer to press/direct imaging với bản in được ghi hình 1 lần duy nhất trong mỗi lần sản xuất in và công nghệ Computer to press/direct imaging với bản in mà hình ảnh trên nó có thể thay đổi sau mỗi lượt in mà chất lượng các tờ in không thay đổi.
Công nghệ CTPress với hình ảnh in có thể thay đổi sau mỗi lượt in, hiện nay mới chỉ được nghiên cứu và thử nghiệm ở một số trung tâm nghiên cứu khoa học của các công ty sản xuất thiết bị in lớn trên thế giới và chưa được áp dụng trong thực tế, tuy nhiên đây thực sự là một công nghệ tiên tiến có nhiều ưu điểm và hứa hẹn sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong ngành công nghiệp in.


3.2 Công nghệ Computer to Print 

Còn có thể gọi là công nghệ “không ép in”, đây là công nghệ hiện đại nhất hiện nay trong lĩnh vực chế bản. Điều đặc biệt của công nghệ này là nó không sử dụng bản in mà dữ liệu số từ máy tính được truyển trực tiếp thành hình ảnh trên tờ in ở máy in. 


Công nghệ náy dựa theo nguyên tắc chụp ảnh tĩnh điện và sử dụng một chất màu đặc biệt, công nghệ này cũng cho phép in ra các hình ảnh khác nhau giữa các lượt in.
thumbnail

Tem vỡ là gì?

Tem vỡ là gì? Tem vỡ, một loại decal đặc biệt trong in ấn, nó có thể sử dụng để làm tem bảo hành trong các linh kiện thiết bị của laptop, điện thoại....




Tem vỡ, một loại decal đặc biệt trong in ấn, nó có thể sử dụng để làm tem bảo hành trong các linh kiện thiết bị của laptop, điện thoại....

Tem vỡ hay thường được gọi là tem bể là một dạng tem bảo hành được in trên chất liệu decal giấy đặc biệt. Giấy tự dính và có tính chất dễ vỡ khi người dùng bóc hoặc mở niêm phong. Có thể dùng để đánh dấu ngày tháng bảo hành sản phẩm nhằm tránh những trường hợp tráo, đổi từ sản phẩm đã hết hạn bảo hành thành hàng còn thời hạn bảo hành gây thiệt hại cho người bán.
Được tạo bởi Blogger.